Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

Thảo quả - gia vị, thuốc quý của dân tộc



Thảo quả là gia vị có trong hầu hết các món ăn ngon, truyền thống của người dân Việt Nam, đặc biệt là trong mùa đông, những ngày giáp Tết, có thể ví dụ như Bánh Trưng, Chè... Nhưng bên cạnh đó, Thảo quả còn là một vị thuốc quý.
Thảo quả - Amomum aromaticum
Hình theo lrc-hueuni.edu.vn
Thông tin chung
Tên thường gọi: Thảo quả
Tên khác: Ðò ho, Sa nhân cóc
Tên tiếng Anh: Cardamon
Tên khoa học: Amomum aromaticum Roxb.
Tên đông nghĩa: Cardamomum aromaticum(Roxb.) Kuntze, Amomum tsaoko Crévost & Lemarie
Thuộc họ Gừng - Zingiberaceae

Gia vị Thảo quả trong chế biến món ăn truyền thống
Bánh chưng, chè kho là hai món ăn truyền thống hầu như không thiếu mặt trong những mâm cỗ Tết của nhân dân ta ở nhiều địa phương. Ăn bánh chưng với chè kho rất ngon, làm tăng thêm hương vị của miếng bánh chưng lên nhiều. Nguyên liệu để nấu chè kho ngoài đậu xanh, đường kính và vừng trắng ra, không thể thiếu thảo quả.
Để chuẩn bị nấu chè kho cần ngâm đậu xanh, đãi sạch vỏ, phơi ráo nước rồi đem rang cho tới lúc hạt đậu có rám vàng sẽ đem đậu xay thành bột mịn. Vừng được rang chín, xát sạch vỏ. Đem thảo quả khô, giã nhỏ và rây lấy bột. Cho bột đậu cùng đường kính (lượng hai thứ bằng nhau) và thảo quả khấy đều với nước lọc. Đặt lên bếp lửa đun và khuấy đều tay cho đến lúc chè đặc quánh và ráo xoong là được. Đổ chè ra đĩa mỏng hoặc đổ vào những khuôn có hình hoa, rồi rắc vừng lên trên. Chè kho ăn nguội và thường ăn với bánh chưng, khi ăn cắt chè thành những miếng nhỏ.

Mô tả
Cây thảo quả là một loại cây thảo sống lâu năm. Cây cao khoảng 2-3 mét, thân rễ mọc ngang có đốt, đường kính 3-4cm, phía ngoài màu hồng, giữa màu trắng, thơm, mẫm. Lá mọc so le, dài 70cm, rộng 18-20cm, có cuống ngắn, bẹ lá có khía dọc, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới nhạt hơn. Cụm hoa hình bông, mọc ở gốc dài 13-20cm, có mang những bông hoa màu đỏ nhạt.
Quả có cuống ngắn, mọc thành chùm sít nhau, hình tròn hay hình nón, đường kính 1,5-2cm, màu đỏ thẫm,  chia 3 ô, mỗi ô có khoảng 7 hạt có áo hạt, thơm, hạt hình tháp ép vào nhau, rất thơm. Quả này khi phơi khô sẽ dài ra, co lại và nhăn nheo theo chiều dọc.
Cây ra hoa về mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 7), có quả vào mùa đông (tháng 10-12).

Bộ phận dùng
Quả - Fructus Amomi Aromatici, thường gọi là Thảo quả.

Nơi sống và thu hái
Loài phân bố ở Ấn Độ, Nêpan, Nam Trung Quốc, Campuchia, Việt Nam.
Thảo quả mọc hoang và được trồng ở vùng núi cao hơn 1.000m, có khí hậu mát lạnh, dưới tán rừng cây to, đất ẩm nhiều mùn thuộc các địa phương vùng núi Hoàng Liên Sơn và vùng Tây Bắc nước ta, như ở các huyện vùng cao thuộc các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu... có những nơi có sản lượng thảo quả rất lớn như huyện Bát Xát, huyện Sa Pa (Lào Cai).
Thu hái quả vào mùa đông (tháng 11, 12, 1), người ta hái quả chín vàng, đem về phơi khô hay sấy khô, khi dùng đập bỏ vỏ ngoài lấy hạt. Cũng có nơi lấy cám gạo hòa với nước cho sền sệt, bao chung quanh quả, nướng cho cháy cám rồi đập bỏ vỏ ngoài, lấy hạt dùng.

Thành phần hóa học
Có tinh dầu với tỷ lệ 1-1,5%.

Tính vị, tác dụng
Vị cay, tính ấm; có tác dụng táo thấp kiện tỳ, khu đàm tiệt ngược, tiêu thực trừ hàn.
Theo Đông y, thảo quả có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng trục hàn, ráo thấp, trừ đờm, ấm bụng, tiêu tích, giúp ăn ngon miệng.

Công dụng, chỉ định và phối hợp
Thảo quả được dùng làm gia vị ăn liền với thịt, cá (khi nấu để cả quả, nhưng sau đó lấy ra vì nồng). Cũng thường được dùng để thêm vào một số bánh kẹo.
Trong nhân dân ta, thảo quả được dùng chủ yếu làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa nôn mửa, ngực bụng chướng đau, ho, sốt, tiêu chảy. Liều dùng mỗi ngày 3-6g, tán bột uống.
Thường dùng làm thuốc chữa đau bụng đầy trướng, ngực đau, nôn oẹ, ỉa chảy, trị sốt rét, lách to; còn dùng ngâm nuốt nước, chữa hôi mồm, ho, chữa đau răng, viêm lợi. Liều dùng 3-6 g dạng thuốc bột, thuốc sắc hoặc thuốc viên.
Ở Ấn Độ, hạt và dầu được dùng như loài Amomum subulatum Roxb. để làm thuốc lợi tiêu hoá, dùng chữa đau thần kinh, dùng trong bệnh lậu như kích dục và giải độc khi bị bò cạp đốt hoặc rắn cắn. Dầu hạt thơm, kích thích, lợi tiêu hoá dùng đắp lên mí mắt để tiêu viêm.
Ở Vân Nam (Trung Quốc) Thảo quả được dùng chữa ho đau ngực có đờm loãng, bụng dạ lạnh đau, tỳ hư ỉa chảy, nôn oẹ và sốt rét.

Nguồn: Y học Cổ truyền Tuệ Tĩnh, Cây cỏ Việt Nam

Đăng nhận xét